Điều trị hóa chất là gì? Các công bố khoa học về Điều trị hóa chất

Điều trị hóa chất là quá trình sử dụng các chất hóa học (như thuốc, hoá chất, thuốc diệt côn trùng, ...) để điều trị các bệnh, ổ dịch bệnh, nhiễm khuẩn hoặc kiể...

Điều trị hóa chất là quá trình sử dụng các chất hóa học (như thuốc, hoá chất, thuốc diệt côn trùng, ...) để điều trị các bệnh, ổ dịch bệnh, nhiễm khuẩn hoặc kiểm soát sự phát triển của các loại côn trùng gây hại, vi khuẩn, nấm, và các loại mầm bệnh khác. Thông qua việc sử dụng các chất hóa học, điều trị hóa chất có thể giúp giảm bớt hoặc loại bỏ các mối đe dọa về sức khỏe và môi trường từ các tác nhân gây hại. Tuy nhiên, việc sử dụng chất hóa chất cũng đòi hỏi sự cân nhắc và tuân thủ đúng quy trình, để đảm bảo hiệu quả trong điều trị mà không gây tổn hại đến con người và môi trường.
Điều trị hóa chất là một phương pháp điều trị bệnh thông qua việc sử dụng các chất hóa học để ức chế hoặc tiêu diệt các tác nhân gây bệnh như vi khuẩn, nấm, côn trùng, côn trùng gây hại, cỏ dại, và các loại mầm bệnh khác.

Các chất hóa học được sử dụng trong quá trình điều trị hóa chất được gọi là thuốc. Chúng có thể được sử dụng thông qua nhiều đường dùng như uống, tiêm, bôi lên da, hay dùng dưới dạng khí. Thuốc có thể hoạt động bằng cách tiêu diệt hoặc ức chế sự phát triển của các tác nhân gây bệnh thông qua việc tác động lên các khía cạnh khác nhau của quá trình sinh trưởng và phân chia của chúng.

Điều trị hóa chất có thể được áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví dụ, trong lĩnh vực y tế, thuốc điều trị hóa chất được sử dụng để tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh, điều trị ung thư, các vấn đề liên quan đến não, tim mạch, hô hấp, và nhiều bệnh lý khác. Trong lĩnh vực nông nghiệp, thuốc điều trị hóa chất được sử dụng để kiểm soát côn trùng gây hại, nấm, cỏ dại, và bảo vệ cây trồng khỏi các mầm bệnh.

Tuy nhiên, việc sử dụng chất hóa chất trong điều trị đòi hỏi sự cân nhắc cẩn thận và tuân thủ đúng quy trình để tránh các tác động phụ đến sức khỏe con người và môi trường. Việc sử dụng quá nhiều hoặc không đúng cách có thể gây ra sự kháng thuốc, gây tổn thương cho hệ thống sinh học và môi trường tự nhiên, hoặc gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng cho con người.

Do đó, việc áp dụng điều trị hóa chất cần được thực hiện dưới sự giám sát của các chuyên gia có chuyên môn, và phải tuân thủ các quy định và quy trình an toàn, bao gồm cách sử dụng, lưu trữ, và xả chất hóa học một cách đúng quy định.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "điều trị hóa chất":

Nghiên Cứu Giai Đoạn III So Sánh Cisplatin Kết Hợp Gemcitabine Với Cisplatin Kết Hợp Pemetrexed Ở Bệnh Nhân Chưa Điều Trị Hóa Chất Với Ung Thư Phổi Không Tế Bào Nhỏ Giai Đoạn Tiến Triển Dịch bởi AI
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 26 Số 21 - Trang 3543-3551 - 2008
Mục đích

Cisplatin kết hợp với gemcitabine là phác đồ tiêu chuẩn để điều trị hàng đầu cho ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển. Các nghiên cứu giai đoạn II của pemetrexed kết hợp với các hợp chất platinum cũng cho thấy hoạt tính trong bối cảnh này.

Bệnh nhân và Phương pháp

Nghiên cứu giai đoạn III, ngẫu nhiên, không thấp kém này so sánh thời gian sống sót giữa các tay điều trị sử dụng phương pháp cận biên cố định (hazard ratio [HR] < 1.176) ở 1.725 bệnh nhân chưa điều trị hóa chất với NSCLC giai đoạn IIIB hoặc IV và tình trạng hoạt động của nhóm Đông y học hợp tác từ 0 đến 1. Bệnh nhân nhận cisplatin 75 mg/m2vào ngày 1 và gemcitabine 1.250 mg/m2vào các ngày 1 và 8 (n = 863) hoặc cisplatin 75 mg/m2và pemetrexed 500 mg/m2vào ngày 1 (n = 862) mỗi 3 tuần tới tối đa sáu chu kỳ.

Kết quả

Thời gian sống sót toàn bộ cho cisplatin/pemetrexed không thấp kém hơn so với cisplatin/gemcitabine (thời gian sống sót trung bình, 10.3 v 10.3 tháng, tương ứng; HR = 0.94; 95% CI, 0.84 đến 1.05). Thời gian sống sót toàn bộ là vượt trội về mặt thống kê cho cisplatin/pemetrexed so với cisplatin/gemcitabine ở bệnh nhân có u tuyến (n = 847; 12.6 v 10.9 tháng, tương ứng) và mô học ung thư tế bào lớn (n = 153; 10.4 v 6.7 tháng, tương ứng). Ngược lại, ở bệnh nhân với mô học ung thư tế bào vảy, cải thiện đáng kể trong sống sót với cisplatin/gemcitabine so với cisplatin/pemetrexed (n = 473; 10.8 v 9.4 tháng, tương ứng). Với cisplatin/pemetrexed, tỷ lệ giảm bạch cầu trung tính, thiếu máu, và giảm tiểu cầu cấp 3 hoặc 4 (P ≤ .001); giảm bạch cầu trung tính bị sốt (P = .002); và rụng tóc (P < .001) là đáng kể thấp hơn, trong khi buồn nôn cấp 3 hoặc 4 (P = .004) thì phổ biến hơn.

Kết luận

Trong NSCLC tiến triển, cisplatin/pemetrexed cung cấp hiệu quả tương tự với khả năng dung nạp tốt hơn và quản lý thuận tiện hơn so với cisplatin/gemcitabine. Đây là nghiên cứu giai đoạn III tiên phong ở NSCLC cho thấy sự khác biệt trong thời gian sống sót dựa trên loại mô học.

Thử nghiệm pha III ngẫu nhiên về Pemetrexed so với Docetaxel trong điều trị bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) đã được điều trị bằng hóa chất Dịch bởi AI
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 22 Số 9 - Trang 1589-1597 - 2004
Mục tiêu

So sánh hiệu quả và độ độc của pemetrexed so với docetaxel trong điều trị bệnh nhân mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) giai đoạn tiến xa sau khi đã được điều trị bằng hóa chất.

Bệnh nhân và phương pháp

Các bệnh nhân đủ điều kiện có trạng thái hiệu suất 0 đến 2, đã được điều trị trước đó với một chế độ hóa trị liệu cho NSCLC tiến xa, và có chức năng cơ quan đủ điều kiện. Bệnh nhân nhận pemetrexed 500 mg/m2 tiêm tĩnh mạch (IV) vào ngày 1 cùng với vitamin B12, axit folic, và dexamethasone hoặc docetaxel 75 mg/m2 IV vào ngày 1 cùng với dexamethasone mỗi 21 ngày. Điểm cuối chính là thời gian sống toàn bộ.

Kết quả

571 bệnh nhân được phân định ngẫu nhiên. Tỷ lệ đáp ứng tổng thể là 9.1% và 8.8% (phân tích phương sai P = .105) cho pemetrexed và docetaxel, tương ứng. Thời gian không tiến triển bệnh trung bình là 2.9 tháng cho mỗi nhóm, và thời gian sống trung bình là 8.3 so với 7.9 tháng (P = không đáng kể) cho pemetrexed và docetaxel, tương ứng. Tỷ lệ sống sót 1 năm cho mỗi nhóm là 29.7%. Bệnh nhân nhận docetaxel có khả năng cao hơn bị giảm bạch cầu độ 3 hoặc 4 (40.2% so với 5.3%; P < .001), giảm bạch cầu có sốt (12.7% so với 1.9%; P < .001), giảm bạch cầu có nhiễm trùng (3.3% so với 0.0%; P = .004), nhập viện vì sốt neutropenic (13.4% so với 1.5%; P < .001), nhập viện do các biến cố bất lợi liên quan đến thuốc khác (10.5% so với 6.4%; P = .092), sử dụng chất tăng sinh tế bào bạch cầu hạt (19.2% so với 2.6%, P < .001) và rụng tóc mọi cấp độ (37.7% so với 6.4%; P < .001) so với bệnh nhân nhận pemetrexed.

Kết luận

Điều trị với pemetrexed đem lại kết quả hiệu lực tương đương lâm sàng, nhưng với ít tác dụng phụ hơn đáng kể so với docetaxel trong điều trị bậc hai cho bệnh nhân mắc NSCLC tiến xa và nên được xem là phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho NSCLC bậc hai khi có sẵn.

#Pemetrexed #Docetaxel #Non-Small-Cell Lung Cancer #NSCLC #Chemotherapy #Phase III Trial #Survival #Efficacy #Toxicity #Second-Line Treatment
Lipopeptid như một chất chống nhiễm khuẩn: một góc nhìn thực tiễn Dịch bởi AI
Walter de Gruyter GmbH - - 2009
Tóm tắt

Kháng sinh lipopeptide đại diện cho một loại kháng sinh cũ đã được phát hiện cách đây hơn 50 năm, bao gồm cả polymyxin cũ nhưng cũng có những loại mới, chẳng hạn như daptomycin mới được phê duyệt. Chúng thường bao gồm một phần peptide vòng ưa nước gắn kết với một chuỗi axit béo, điều này giúp chúng chèn vào lớp lipid của màng tế bào vi khuẩn. Bài tổng quan này trình bày một cái nhìn tổng thể về loại kháng sinh này, tập trung vào các ứng dụng điều trị và đặc biệt nhấn mạnh các điều chỉnh hóa học được thực hiện để cải thiện hoạt tính của chúng.

#lipopeptide #kháng sinh #ứng dụng điều trị #sửa đổi hóa học
Phun Lá Stigmasterol Điều Hòa Quá Trình Sinh Lý và Hệ Thống Chống Oxy Hóa để Cải Thiện Năng Suất và Chất Lượng của Hướng Dương Dưới Căng Thẳng Hạn Hán Dịch bởi AI
Journal of Soil Science and Plant Nutrition - Tập 23 Số 2 - Trang 2433-2450 - 2023
Tóm tắt

Căng thẳng hạn hán là một thách thức không thể tránh khỏi làm hạn chế sản xuất và chất lượng cây trồng. Stigmasterol là một hợp chất tiềm năng trong việc bảo vệ thực vật và cải thiện năng suất trong điều kiện hạn hán. Do đó, các tác động của việc sử dụng trị liệu ngoài thân bằng stigmasterol trong việc cải thiện sinh trưởng và năng suất của cây hướng dương trồng dưới hạn hán đã được nghiên cứu. Một thí nghiệm chậu được thực hiện tại hai mùa hè, sử dụng việc điều trị phun lá stigmasterol với liều lượng 0, 100, 200 và 300 mg L−1 lên cây hướng dương dưới các mức tưới tiêu khác nhau, chiếm 80% và 50% nhu cầu tưới nước (WIR). Căng thẳng hạn hán (50% WIR) gây ra sự giảm đáng kể trong các thành phần sinh trưởng và năng suất; tỷ lệ giảm đường kính đầu hoa đạt 26,55%, chu vi đầu hoa 26,05%, trọng lượng hạt mỗi cây 36,26%, và trọng lượng 100 hạt 29,61%, do giảm sắc tố quang hợp và auxin axetic trong khi làm tăng hydrogen peroxide (H2O2), peroxidation lipid (MDA), rò rỉ màng, hoạt động lipoxygenase, một số hợp chất chống oxy hoá, enzyme, và osmo chất. Stigmasterol có tác dụng thúc đẩy sự tăng trưởng và năng suất của cây hướng dương qua việc cải thiện sắc tố quang hợp, indole acetic acid, các chất chống oxy hóa không enzym, enzyme, và osmo chất, trong khi giảm rò rỉ màng, H2O2, và MDA, do đó cải thiện chất lượng năng suất. Hơn nữa, stigmasterol cải thiện tầm quan trọng kinh tế dầu hạt hướng dương. Khoảng 200 mg L−1 stigmasterol là nồng độ hiệu quả nhất trong việc cải thiện các chỉ số năng suất, khi nó gây ra 19,84% và 25,29% trong trọng lượng hạt mỗi cây và 26,72% và 33,95% của trọng lượng 100 hạt dưới 80% và 50% WIR, tương ứng. Stigmasterol cải thiện sinh trưởng và năng suất của hướng dương dưới điều kiện nước bình thường và có thể vượt qua tác động tiêu cực của hạn hán bằng cách cải thiện sinh trưởng và phát triển cùng các thuộc tính sinh lý khác nhau.

#Căng thẳng hạn hán #Stigmasterol #Hướng dương #Cải thiện năng suất #Chống oxy hóa #Sắc tố quang hợp #Auxin axetic
Tình trạng dinh dưỡng của người bệnh ung thư dạ dày trong quá trình điều trị hoá chất tại Bệnh viện K năm 2020-2021
Ung thư dạ dày là một trong các bệnh lí ung thư phổ biến nhất trên thế giới. Đây cũng là bệnh ung thư mà người bệnh có tỉ lệ giảm cân và được chẩn đoán suy dinh dưỡng cao. Với mục đích đánh giá thay đổi tình trạng dinh dưỡng của người bệnhung thư dạ dày trong quá trình điều trị hoá chất, chúng tôi thực hiện nghiên cứu trên 50 người bệnh ung thư dạ dày trong độ tuổi trưởng thành, đã điều trị phẫu thuật triệt căn và được tiến hành điều trị hoá chất theo phác đồ XELOX, theo dõi và đánh giá các chỉ số: cân nặng, BMI, PG-SGA, hồng cầu, hemoglobin. Kết quả nghiên cứu cho thấy: trước khi điều trị hoá chất 48% người bệnh có suy dinh dưỡng theo BMI, 94% người bệnh có nguy cơ suy dinh dưỡng theo PG-SGA, trong quá trình điều trị cân nặng trung bình giảm từ 47,5 kg còn 46,6 kg, BMI trung bình giảm từ 18,63 còn 18,32 kg/m2. Từ kết quả trên cho thấy tình trạng dinh dưỡng của người bệnh ung thư dạ dày trong quá trình điều trị hoá chất có xu hướng sụt giảm, cần có kế hoạch can thiệp dinh dưỡng sớm trên các đối tượng người bệnh này.
#ung thư dạ dày #tình trạng dinh dưỡng #hoá chất #suy dinh dưỡng #ung thư
Đặc điểm lâm sàng của các biến chứng liên quan đến catheter tĩnh mạch trung tâm được đặt từ ngoại vi ở bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất: một nghiên cứu quan sát và triển khai Dịch bởi AI
BMC Cancer -
Tóm tắt Mục đích

Tỉ lệ biến chứng liên quan đến catheter tĩnh mạch trung tâm được đặt từ ngoại vi (PICC) cao hơn ở bệnh nhân ung thư so với bệnh nhân không mắc ung thư. Tuy nhiên, mô hình xảy ra biến chứng cụ thể theo thời gian vẫn chưa rõ ràng. Mục đích của nghiên cứu này là điều tra các đặc điểm lâm sàng của các biến chứng liên quan đến PICC ở bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất.

Phương pháp

Nghiên cứu quan sát này được tiến hành tại một bệnh viện trực thuộc đại học ở miền Tây Trung Quốc. Các bệnh nhân ung thư đang được đặt PICC để điều trị chống ung thư đã được tuyển chọn và theo dõi cho đến tuần đầu tiên sau khi rút catheter. Mọi biến chứng, bao gồm thời gian xảy ra và kết quả, đều được ghi nhận. Quá trình xảy ra các biến chứng cụ thể liên quan đến PICC theo thời gian được xác định dựa trên phân tích đường cong Kaplan‒Meier.

Kết quả

Trong số 233 bệnh nhân được phân tích, gần một nửa (n = 112/233, 48.1%) mắc phải 150 biến chứng liên quan đến PICC. Biến chứng phổ biến nhất là huyết khối liên quan đến catheter có triệu chứng (CRT) (n = 37/233, 15.9%), tổn thương da do keo y tế (MARSI) (n = 27/233, 11.6%), và sự rời catheter (n = 17/233, 7.3%), chiếm 54.0% (n = 81/150, 54.0%) tổng số biến chứng. Theo phân tích đường cong Kaplan‒Meier, CRT có triệu chứng, đau, viêm tĩnh mạch, và chảy máu tại vị trí đặt catheter được phân loại là nhóm "khởi phát sớm" chủ yếu xảy ra trong tháng đầu tiên sau khi đặt. Biến chứng gãy catheter và nhiễm trùng huyết liên quan đến catheter được phân loại là nhóm "khởi phát muộn" xảy ra sau tháng thứ hai sau khi đặt. MARSI, sự rời catheter, tắc nghẹt, và nhiễm trùng tại vị trí đặt catheter được phân loại là nhóm "khởi phát dai dẳng" xảy ra liên tục trong toàn bộ thời gian tồn tại của catheter. Trong số 112 bệnh nhân có biến chứng liên quan đến PICC, 50 (44.6%) bệnh nhân đã phải rút catheter do biến chứng, và 62 (55.4%) bệnh nhân đã giữ được catheter cho đến khi hoàn tất điều trị thông qua các can thiệp thông thường. Lý do chính gây ra sự rút catheter không mong muốn là sự rời catheter (n = 12/233, 5.2%), CRT có triệu chứng (n = 10/233, 4.3%), và MARSI (n = 7/233, 3.0%), chiếm 58.0% (n = 29/50, 58.0%) tổng số trường hợp rút catheter không mong muốn. Thời gian tồn tại của catheter ở bệnh nhân có biến chứng dưới các can thiệp thành công (130.5 ± 32.1 ngày) và bệnh nhân không có biến chứng (138.2 ± 46.4 ngày) không có sự khác biệt đáng kể (t = 1.306, p = 0.194; kiểm tra log-rank = 2.610, p = 0.106).

Kết luận

Các biến chứng liên quan đến PICC khá phổ biến ở bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất. Phân phối theo thời gian của các biến chứng liên quan đến PICC khác nhau, và nhân viên y tế nên phát triển các quy trình phòng ngừa theo từng thời điểm cụ thể. Bởi vì hơn một nửa bệnh nhân có biến chứng liên quan đến PICC có thể được quản lý với các can thiệp thông thường, PICC vẫn là ưu tiên cho các bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất ngắn hạn. Nghiên cứu này đã được đăng ký vào ngày 02/08/2019 tại Đăng ký thử nghiệm lâm sàng Trung Quốc (số đăng ký: ChiCTR1900024890).

ĐÁNH GIÁ HÀNH VI TỰ CHĂM SÓC CỦA NGƯỜI BỆNH UNG THƯ SAU ĐIỀU TRỊ HOÁ CHẤT TẠI TRUNG TÂM UNG BƯỚU – BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH HẢI DƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Mô tả hành vi tự chăm sóc của người bệnh ung thư sau các đợt điều trị hoá chất và tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến hành vi tự chăm sóc của ngừơi bệnh. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên 80 người bệnh đang điều trị hoá chất tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương. Kết quả: Nghiên cứu cho thấy hầu hết người bệnh có thời gian mắc bệnh từ 1 đến 3 năm (61.2%), ung thư đại tràng chiếm tỷ lệ cao nhất 27.5%, tiếp đến là ung thư dạ dày chiếm 22.5%; toàn bộ ngừơi bệnh nhận được sự hỗ trợ từ gia đình và nhân viên y tế. Về hành vi tự chăm sóc của người bệnh vẫn còn chưa tốt điểm trung bình là 46.1 (SD ± 7.98). Chỉ có 40% số người bệnh quan tâm đến sức khoẻ họ thường tìm hiểu các biện pháp tốt nhất để chăm sóc sức khoẻ và khi được dùng thuốc mới thì họ tìm hiểu tác dụng của thuốc và tác dụng phụ có thể xảy ra. Mức độ tự tin của người bệnh còn thấp điểm trung bình là 26.1 (SD ± 4.83). Hầu hết người bệnh không cảm thấy tự tin và không giữ được bình tĩnh trong việc đương đầu với những khó khăn và giải quyết các tình huống bất ngờ. Đã tìm thấy mối liên quan giữa hành vi tự chăm sóc trình độ học vấn và độ tự tin của người bệnh. Kết luận: Hành vi tự chăm sóc của người bệnh còn chưa tốt điểm trung bình là 46.1, Độ tự tin của ngừời bệnh còn thấp điểm trung bình chỉ có 26.1, về mối liên quan trình độ học vấn, độ tự tin có mối tương quan với hành vi tự chăm sóc.
Hiệu quả của phác đồ 4AC-4T liều dày trong điều trị tân bổ trợ ở bệnh nhân ung thư vú giai đoạn II, III
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị tân bổ trợ và tác dụng không mong muốn của phác đồ 4AC-4T liều dày ở bệnh nhân ung thư vú giai đoạn II, III. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả tiến cứu, cắt ngang, có theo dõi dọc, không có nhóm chứng trên 44 bệnh nhân ung thư vú giai đoạn II, III được điều trị hoá chất tân bổ trợ phác đồ 4AC-4T liều dày tại khoa Ung thư Tổng hợp, Viện Ung thư, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 (Bệnh viện TWQĐ 108) từ tháng 06/2018 đến tháng 09/2022. Kết quả: Sau điều trị, kích thước trung bình đường kính lớn nhất khối u, nồng độ trung bình CEA, CA15-3 giảm có ý nghĩa thống kê. Về đáp ứng lâm sàng theo tiêu chuẩn RECIST 1.1, tỷ lệ đáp ứng toàn bộ (ORR) là 97,7%; trong đó đáp ứng hoàn toàn (CR) chiếm 36,4%. 100% bệnh nhân được phẫu thuật sau điều trị tân bổ trợ. Đáp ứng hoàn toàn trên mô bệnh học (pCR) đạt 31,8%. Độc tính độ 3, 4 trên hệ tạo huyết hay gặp nhất là giảm bạch cầu và bạch cầu hạt với tỷ lệ lần lượt là 11,4% và 18,2%. Các độc tính ngoài hệ tạo huyết đều ở mức độ nhẹ (độ 1, độ 2). Kết luận: Điều trị tân bổ trợ phác đồ AC-T liều dày cho bệnh nhân ung thư vú giai đoạn II, III cho tỷ lệ đáp ứng lâm sàng và đáp ứng mô bệnh học cao, tác dụng không mong muốn chấp nhận được.
#Điều trị hoá chất tân bổ trợ #ung thư vú #đáp ứng mô bệnh học
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ HÓA CHẤT BỔ TRỢ TRƯỚC PHẪU THUẬT PHÁC ĐỒ 4AC-4T LIỀU DÀY BỆNH UNG THƯ VÚ TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân ung thư vú (UTV) được hóa trị bổ trợ trước phẫu thuật phác đồ 4AC-4T liều dày; đánh giá đáp ứng và tác dụng không mong muốn của nhóm bệnh nhân (BN) nghiên cứu trên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu kết hợp tiến cứu trên 42 BN UTV được hóa trị bổ trợ trước phẫu thuật phác đồ 4AC-4T liều dày tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Kết quả: Đặc điểm nhóm nghiên cứu: Tuổi trung bình BN: 46,5 tuổi, phần lớn BN ở giai đoạn III (81%) trong khi 19% BN ở giai đoạn II, 92,9% BN có thể mô bệnh học là ung thư biểu mô thể ống xâm nhập, đa số BN có độ mô  học III (50%). Đáp ứng: Sau điều trị hóa chất, tỉ lệ người bệnh đáp ứng hoàn toàn (ĐƯHT) trên lâm sàng tăng từ 11,9% sau 4 đợt hóa trị lên 38,1% sau 8 đợt hóa trị. Không có BN tiến triển lâm sàng sau điều trị 8 chu kỳ hóa chất. Cả 42 BN đều được phẫu thuật sau hóa trị. ĐƯHT trên mô bệnh học đạt 42,8%. Độc tính: BN trong nghiên cứu dung nạp khá tốt với phác đồ hóa chất. Thường gặp hạ bạch cầu độ 1,2 và hạ bạch cầu trung tính độ 2,3. Nôn, chán ăn, rụng tóc và độc tính thần kinh ngoại vi là những tác dụng không mong muốn thường gặp khi điều trị, tuy nhiên chỉ ở độ 1 và độ 2. Kết luận: Phác đồ 4AC-4T liều dày cho tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn về mô bệnh học cao, đồng thời độc tính ở mức độ chấp nhận được, do vậy có thể áp  dụng  được ở nước ta trong điều trị bổ trợ trước ung thư vú, đặc biệt trong giai đoạn  không thể phẫu thuật được tại thời điểm chẩn đoán.
#Ung thư vú #điều trị bổ trợ trước #phác đồ 4AC-4T liều dày
THỰC TRẠNG KHẨU PHẦN ĂN CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ ĐƯỜNG TIÊU HÓA ĐIỀU TRỊ HÓA CHẤT TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Mục tiêu: Đánh giá khẩu phần thực tế của bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa điều trị hóa chất tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Phương pháp: Điều tra cắt ngang được tiến hành trên 66 bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa điều trị hóa chất tại khoa Ung bướu và Chăm sóc giảm nhẹ, bệnh viện Đại học Y Hà Nội bằng phỏng vấn khẩu phần 24 giờ. Kết quả: Năng lượng trung bình của khẩu phần là 1323,9±358,4 kcal/ngày (24,1±7,4 kcal/kg/ngày) với 36,4% bệnh nhân đạt 100% so với nhu cầu khuyến nghị (NCKN). Protein, glucid của khẩu phần trung bình là 66,4±18,2 g/ngày (1,2 ± 0,37 g/kg/ngày); 176,8±56,3 g/ngày, có 43,9%; 24,2% bệnh nhân đạt 100% so với NCKN về Protein và Glucid, có sự khác biệt giữa hai nhóm BN ung thư dạ dày và đại tràng (tương ứng p=0,048; p=0,044). Tỷ lệ các chất sinh năng lượng 20,2: 26,2: 53,6 chưa cân đối theo khuyến nghị, năng lượng do Lipid cung cấp thấp hơn so với khuyến nghị.Tỷ lệ bệnh nhân với khẩu phần không đạt 100% NCKN về sắt, canxi, vitamin A, B1, B2, PP lần lượt là: 77,3%; 57,6%; 92,4%; 48,5%; 74,2%; 78,8%. Kết luận: Khẩu phần của đối tượng nghiên cứu thiếu hụt về các chất sinh năng lượng, vitamin và chất khoáng, cần có giải pháp truyền thông dinh dưỡng và can thiệp dinh dưỡng cho bệnh nhân.
#Khẩu phần 24h #ung thư đường tiêu hóa #điều trị hóa chất
Tổng số: 103   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10