Điều trị hóa chất là gì? Các công bố khoa học về Điều trị hóa chất
Điều trị hóa chất là quá trình sử dụng các chất hóa học (như thuốc, hoá chất, thuốc diệt côn trùng, ...) để điều trị các bệnh, ổ dịch bệnh, nhiễm khuẩn hoặc kiể...
Điều trị hóa chất là quá trình sử dụng các chất hóa học (như thuốc, hoá chất, thuốc diệt côn trùng, ...) để điều trị các bệnh, ổ dịch bệnh, nhiễm khuẩn hoặc kiểm soát sự phát triển của các loại côn trùng gây hại, vi khuẩn, nấm, và các loại mầm bệnh khác. Thông qua việc sử dụng các chất hóa học, điều trị hóa chất có thể giúp giảm bớt hoặc loại bỏ các mối đe dọa về sức khỏe và môi trường từ các tác nhân gây hại. Tuy nhiên, việc sử dụng chất hóa chất cũng đòi hỏi sự cân nhắc và tuân thủ đúng quy trình, để đảm bảo hiệu quả trong điều trị mà không gây tổn hại đến con người và môi trường.
Điều trị hóa chất là một phương pháp điều trị bệnh thông qua việc sử dụng các chất hóa học để ức chế hoặc tiêu diệt các tác nhân gây bệnh như vi khuẩn, nấm, côn trùng, côn trùng gây hại, cỏ dại, và các loại mầm bệnh khác.
Các chất hóa học được sử dụng trong quá trình điều trị hóa chất được gọi là thuốc. Chúng có thể được sử dụng thông qua nhiều đường dùng như uống, tiêm, bôi lên da, hay dùng dưới dạng khí. Thuốc có thể hoạt động bằng cách tiêu diệt hoặc ức chế sự phát triển của các tác nhân gây bệnh thông qua việc tác động lên các khía cạnh khác nhau của quá trình sinh trưởng và phân chia của chúng.
Điều trị hóa chất có thể được áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví dụ, trong lĩnh vực y tế, thuốc điều trị hóa chất được sử dụng để tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh, điều trị ung thư, các vấn đề liên quan đến não, tim mạch, hô hấp, và nhiều bệnh lý khác. Trong lĩnh vực nông nghiệp, thuốc điều trị hóa chất được sử dụng để kiểm soát côn trùng gây hại, nấm, cỏ dại, và bảo vệ cây trồng khỏi các mầm bệnh.
Tuy nhiên, việc sử dụng chất hóa chất trong điều trị đòi hỏi sự cân nhắc cẩn thận và tuân thủ đúng quy trình để tránh các tác động phụ đến sức khỏe con người và môi trường. Việc sử dụng quá nhiều hoặc không đúng cách có thể gây ra sự kháng thuốc, gây tổn thương cho hệ thống sinh học và môi trường tự nhiên, hoặc gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng cho con người.
Do đó, việc áp dụng điều trị hóa chất cần được thực hiện dưới sự giám sát của các chuyên gia có chuyên môn, và phải tuân thủ các quy định và quy trình an toàn, bao gồm cách sử dụng, lưu trữ, và xả chất hóa học một cách đúng quy định.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "điều trị hóa chất":
Cisplatin kết hợp với gemcitabine là phác đồ tiêu chuẩn để điều trị hàng đầu cho ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) tiến triển. Các nghiên cứu giai đoạn II của pemetrexed kết hợp với các hợp chất platinum cũng cho thấy hoạt tính trong bối cảnh này.
Nghiên cứu giai đoạn III, ngẫu nhiên, không thấp kém này so sánh thời gian sống sót giữa các tay điều trị sử dụng phương pháp cận biên cố định (hazard ratio [HR] < 1.176) ở 1.725 bệnh nhân chưa điều trị hóa chất với NSCLC giai đoạn IIIB hoặc IV và tình trạng hoạt động của nhóm Đông y học hợp tác từ 0 đến 1. Bệnh nhân nhận cisplatin 75 mg/m2vào ngày 1 và gemcitabine 1.250 mg/m2vào các ngày 1 và 8 (n = 863) hoặc cisplatin 75 mg/m2và pemetrexed 500 mg/m2vào ngày 1 (n = 862) mỗi 3 tuần tới tối đa sáu chu kỳ.
Thời gian sống sót toàn bộ cho cisplatin/pemetrexed không thấp kém hơn so với cisplatin/gemcitabine (thời gian sống sót trung bình, 10.3 v 10.3 tháng, tương ứng; HR = 0.94; 95% CI, 0.84 đến 1.05). Thời gian sống sót toàn bộ là vượt trội về mặt thống kê cho cisplatin/pemetrexed so với cisplatin/gemcitabine ở bệnh nhân có u tuyến (n = 847; 12.6 v 10.9 tháng, tương ứng) và mô học ung thư tế bào lớn (n = 153; 10.4 v 6.7 tháng, tương ứng). Ngược lại, ở bệnh nhân với mô học ung thư tế bào vảy, cải thiện đáng kể trong sống sót với cisplatin/gemcitabine so với cisplatin/pemetrexed (n = 473; 10.8 v 9.4 tháng, tương ứng). Với cisplatin/pemetrexed, tỷ lệ giảm bạch cầu trung tính, thiếu máu, và giảm tiểu cầu cấp 3 hoặc 4 (P ≤ .001); giảm bạch cầu trung tính bị sốt (P = .002); và rụng tóc (P < .001) là đáng kể thấp hơn, trong khi buồn nôn cấp 3 hoặc 4 (P = .004) thì phổ biến hơn.
Trong NSCLC tiến triển, cisplatin/pemetrexed cung cấp hiệu quả tương tự với khả năng dung nạp tốt hơn và quản lý thuận tiện hơn so với cisplatin/gemcitabine. Đây là nghiên cứu giai đoạn III tiên phong ở NSCLC cho thấy sự khác biệt trong thời gian sống sót dựa trên loại mô học.
So sánh hiệu quả và độ độc của pemetrexed so với docetaxel trong điều trị bệnh nhân mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) giai đoạn tiến xa sau khi đã được điều trị bằng hóa chất.
Các bệnh nhân đủ điều kiện có trạng thái hiệu suất 0 đến 2, đã được điều trị trước đó với một chế độ hóa trị liệu cho NSCLC tiến xa, và có chức năng cơ quan đủ điều kiện. Bệnh nhân nhận pemetrexed 500 mg/m2 tiêm tĩnh mạch (IV) vào ngày 1 cùng với vitamin B12, axit folic, và dexamethasone hoặc docetaxel 75 mg/m2 IV vào ngày 1 cùng với dexamethasone mỗi 21 ngày. Điểm cuối chính là thời gian sống toàn bộ.
571 bệnh nhân được phân định ngẫu nhiên. Tỷ lệ đáp ứng tổng thể là 9.1% và 8.8% (phân tích phương sai P = .105) cho pemetrexed và docetaxel, tương ứng. Thời gian không tiến triển bệnh trung bình là 2.9 tháng cho mỗi nhóm, và thời gian sống trung bình là 8.3 so với 7.9 tháng (P = không đáng kể) cho pemetrexed và docetaxel, tương ứng. Tỷ lệ sống sót 1 năm cho mỗi nhóm là 29.7%. Bệnh nhân nhận docetaxel có khả năng cao hơn bị giảm bạch cầu độ 3 hoặc 4 (40.2% so với 5.3%; P < .001), giảm bạch cầu có sốt (12.7% so với 1.9%; P < .001), giảm bạch cầu có nhiễm trùng (3.3% so với 0.0%; P = .004), nhập viện vì sốt neutropenic (13.4% so với 1.5%; P < .001), nhập viện do các biến cố bất lợi liên quan đến thuốc khác (10.5% so với 6.4%; P = .092), sử dụng chất tăng sinh tế bào bạch cầu hạt (19.2% so với 2.6%, P < .001) và rụng tóc mọi cấp độ (37.7% so với 6.4%; P < .001) so với bệnh nhân nhận pemetrexed.
Điều trị với pemetrexed đem lại kết quả hiệu lực tương đương lâm sàng, nhưng với ít tác dụng phụ hơn đáng kể so với docetaxel trong điều trị bậc hai cho bệnh nhân mắc NSCLC tiến xa và nên được xem là phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho NSCLC bậc hai khi có sẵn.
Căng thẳng hạn hán là một thách thức không thể tránh khỏi làm hạn chế sản xuất và chất lượng cây trồng. Stigmasterol là một hợp chất tiềm năng trong việc bảo vệ thực vật và cải thiện năng suất trong điều kiện hạn hán. Do đó, các tác động của việc sử dụng trị liệu ngoài thân bằng stigmasterol trong việc cải thiện sinh trưởng và năng suất của cây hướng dương trồng dưới hạn hán đã được nghiên cứu. Một thí nghiệm chậu được thực hiện tại hai mùa hè, sử dụng việc điều trị phun lá stigmasterol với liều lượng 0, 100, 200 và 300 mg L−1 lên cây hướng dương dưới các mức tưới tiêu khác nhau, chiếm 80% và 50% nhu cầu tưới nước (WIR). Căng thẳng hạn hán (50% WIR) gây ra sự giảm đáng kể trong các thành phần sinh trưởng và năng suất; tỷ lệ giảm đường kính đầu hoa đạt 26,55%, chu vi đầu hoa 26,05%, trọng lượng hạt mỗi cây 36,26%, và trọng lượng 100 hạt 29,61%, do giảm sắc tố quang hợp và auxin axetic trong khi làm tăng hydrogen peroxide (H2O2), peroxidation lipid (MDA), rò rỉ màng, hoạt động lipoxygenase, một số hợp chất chống oxy hoá, enzyme, và osmo chất. Stigmasterol có tác dụng thúc đẩy sự tăng trưởng và năng suất của cây hướng dương qua việc cải thiện sắc tố quang hợp, indole acetic acid, các chất chống oxy hóa không enzym, enzyme, và osmo chất, trong khi giảm rò rỉ màng, H2O2, và MDA, do đó cải thiện chất lượng năng suất. Hơn nữa, stigmasterol cải thiện tầm quan trọng kinh tế dầu hạt hướng dương. Khoảng 200 mg L−1 stigmasterol là nồng độ hiệu quả nhất trong việc cải thiện các chỉ số năng suất, khi nó gây ra 19,84% và 25,29% trong trọng lượng hạt mỗi cây và 26,72% và 33,95% của trọng lượng 100 hạt dưới 80% và 50% WIR, tương ứng. Stigmasterol cải thiện sinh trưởng và năng suất của hướng dương dưới điều kiện nước bình thường và có thể vượt qua tác động tiêu cực của hạn hán bằng cách cải thiện sinh trưởng và phát triển cùng các thuộc tính sinh lý khác nhau.
Tỉ lệ biến chứng liên quan đến catheter tĩnh mạch trung tâm được đặt từ ngoại vi (PICC) cao hơn ở bệnh nhân ung thư so với bệnh nhân không mắc ung thư. Tuy nhiên, mô hình xảy ra biến chứng cụ thể theo thời gian vẫn chưa rõ ràng. Mục đích của nghiên cứu này là điều tra các đặc điểm lâm sàng của các biến chứng liên quan đến PICC ở bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất.
Nghiên cứu quan sát này được tiến hành tại một bệnh viện trực thuộc đại học ở miền Tây Trung Quốc. Các bệnh nhân ung thư đang được đặt PICC để điều trị chống ung thư đã được tuyển chọn và theo dõi cho đến tuần đầu tiên sau khi rút catheter. Mọi biến chứng, bao gồm thời gian xảy ra và kết quả, đều được ghi nhận. Quá trình xảy ra các biến chứng cụ thể liên quan đến PICC theo thời gian được xác định dựa trên phân tích đường cong Kaplan‒Meier.
Trong số 233 bệnh nhân được phân tích, gần một nửa (n = 112/233, 48.1%) mắc phải 150 biến chứng liên quan đến PICC. Biến chứng phổ biến nhất là huyết khối liên quan đến catheter có triệu chứng (CRT) (n = 37/233, 15.9%), tổn thương da do keo y tế (MARSI) (n = 27/233, 11.6%), và sự rời catheter (n = 17/233, 7.3%), chiếm 54.0% (n = 81/150, 54.0%) tổng số biến chứng. Theo phân tích đường cong Kaplan‒Meier, CRT có triệu chứng, đau, viêm tĩnh mạch, và chảy máu tại vị trí đặt catheter được phân loại là nhóm "khởi phát sớm" chủ yếu xảy ra trong tháng đầu tiên sau khi đặt. Biến chứng gãy catheter và nhiễm trùng huyết liên quan đến catheter được phân loại là nhóm "khởi phát muộn" xảy ra sau tháng thứ hai sau khi đặt. MARSI, sự rời catheter, tắc nghẹt, và nhiễm trùng tại vị trí đặt catheter được phân loại là nhóm "khởi phát dai dẳng" xảy ra liên tục trong toàn bộ thời gian tồn tại của catheter. Trong số 112 bệnh nhân có biến chứng liên quan đến PICC, 50 (44.6%) bệnh nhân đã phải rút catheter do biến chứng, và 62 (55.4%) bệnh nhân đã giữ được catheter cho đến khi hoàn tất điều trị thông qua các can thiệp thông thường. Lý do chính gây ra sự rút catheter không mong muốn là sự rời catheter (n = 12/233, 5.2%), CRT có triệu chứng (n = 10/233, 4.3%), và MARSI (n = 7/233, 3.0%), chiếm 58.0% (n = 29/50, 58.0%) tổng số trường hợp rút catheter không mong muốn. Thời gian tồn tại của catheter ở bệnh nhân có biến chứng dưới các can thiệp thành công (130.5 ± 32.1 ngày) và bệnh nhân không có biến chứng (138.2 ± 46.4 ngày) không có sự khác biệt đáng kể (t = 1.306,
Các biến chứng liên quan đến PICC khá phổ biến ở bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất. Phân phối theo thời gian của các biến chứng liên quan đến PICC khác nhau, và nhân viên y tế nên phát triển các quy trình phòng ngừa theo từng thời điểm cụ thể. Bởi vì hơn một nửa bệnh nhân có biến chứng liên quan đến PICC có thể được quản lý với các can thiệp thông thường, PICC vẫn là ưu tiên cho các bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất ngắn hạn. Nghiên cứu này đã được đăng ký vào ngày 02/08/2019 tại Đăng ký thử nghiệm lâm sàng Trung Quốc (số đăng ký: ChiCTR1900024890).
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 9